Phơi nhiễm HIV là gì?
Theo Cục Phòng chống HIV/AIDS thuộc Bộ Y Tế, phơi nhiễm với HIV là trường hợp có tiếp xúc trực tiếp với máu hoặc dịch cơ thể của người nhiễm HIV hoặc nghi nhiễm HIV, từ đó dẫn đến nguy cơ lây nhiễm HIV.
Phơi nhiễm HIV được chia làm 2 loại:
- Phơi nhiễm nghề nghiệp: Các đối tượng thường xuyên tiếp xúc với máu và dịch tiết từ người khác.
- Phơi nhiễm ngoài môi trường nghề nghiệp (tại cộng đồng): Chẳng hạn như đạp phải kim tiêm, vật sắc nhọn, dùng chung kim tiêm nghi có dính máu, dịch của người bệnh HIV…
Chi tiết các trường hợp:
- Khi làm các thủ thuật y tế như tiêm truyền hoặc lấy máu làm xét nghiệm bị kim đâm vào.
- Vết thương do dao mổ hay các dụng cụ sắc nhọn chọc hay đâm vào gây ra chảy máu.
- Bị tổn thương qua da do các ống đựng máu hay chất dịch của bệnh nhân bị vỡ đâm vào.
- Máu hoặc dịch của người có HIV bắn vào các vùng da bị tổn thương, vào niêm mạc: Mắt, mũi, họng.
- Bị người khác dùng bơm kim tiêm đã qua sử dụng có máu và có chứa virus HIV đâm vào, hoặc những người trong khi làm nhiệm vụ như công an, bác sĩ,… cấp cứu tai nạn giao thông, bắt tội phạm,…
- Khi quan hệ tình dục với người bị nhiễm HIV mà không sử dụng bao cao su phòng ngừa.
Trên thực tế, không phải trường hợp nào những người bị phơi nhiễm HIV cũng đồng nghĩa với việc sẽ bị nhiễm HIV. Điều này sẽ phụ thuộc vào từng hành vi cụ thể và mức độ nguy cơ của hành vi đó. Khi gặp trường hợp rủi ro, việc xử trí sau phơi nhiễm là rất quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt, giúp cho bạn và người thân hạn chế được nguy cơ lây nhiễm HIV.
Xử lý phơi nhiễm HIV
Xử lý vết thương tại chỗ
Với tổn thương da chảy máu
- Rửa ngay vết thương dưới vòi nước.
- Để vết thương chảy máu trong thời gian ngắn.
- Rửa kỹ bằng xà phòng, sát trùng bằng các dung dịch sát khuẩn (Dakin, Javen 1/10 hoặc cồn y tế) trong thời gian ít nhất là 5 phút.
Nếu phơi nhiễm qua niêm mạc mắt
- Rửa bằng nước cất hoặc nước muối NaCL 0,9% liên tục trong vòng 5 phút.
Phơi nhiễm qua niêm mạc miệng, mũi
- Rửa bằng nước cất hoặc nước muối NaCL 0,9%.
- Súc miệng bằng nước NaCL 0,9% nhiều lần.
Đánh giá nguy cơ phơi nhiễm
Nguy cơ cao
- Tổn thương qua da sâu, chảy máu nhiều.
- Máu và các dịch của người mắc HIV bắn vào các vết thương, niêm mạc bị loét rộng từ trước.
Nguy cơ thấp
- Tổn thương da xây xát nông và không chảy máu hoặc chảy máu rất ít.
- Máu và chất dịch cơ thể bắn vào niêm mạc không bị tổn thương, viêm loét.
Không có nguy cơ
- Máu và chất dịch cơ thể của người bệnh bắn vào vùng da lành, và không bị tổn thương.
Dự phòng phơi nhiễm HIV
Dự phòng sau phơi nhiễm (PEP) là sử dụng thuốc phơi nhiễm HIV – thuốc kháng virus ARV để ngăn ngừa nhiễm virus này sau khi thực hiện hành động tiềm ẩn nguy cơ.
Cần tiến hành điều trị ARV ngay cho người bị phơi nhiễm, đặc biệt là những người có nguy cơ lây nhiễm cao, càng sớm càng tốt.
Tốt nhất là điều trị ARV sớm 2-6 tiếng đồng hồ sau khi bị phơi nhiễm và không nên điều trị muộn sau 72 tiếng. Thời gian điều trị ARV kéo dài trong bốn tuần và có thể sử dụng các phác đồ sau theo chỉ định của bác sĩ: ZDV + 3TC hoặc d4T + 3TC.
Trong thời gian điều trị dự phòng ARV, cần theo dõi tác dụng phụ của thuốc ARV thông qua các xét nghiệm: Xét nghiệm công thức máu, đo chỉ số men gan ALT/SGPT lúc bắt đầu điều trị và sau khi điều trị được hai tuần, xét nghiệm đường máu. Đồng thời, người bị phơi nhiễm cần xét nghiệm HIV sau một, ba và sáu tháng kể từ thời điểm bị phơi nhiễm.
Trong thời gian này, người bị phơi nhiễm cần thực hiện các biện pháp dự phòng lây nhiễm cho người khác. Sau 6 tháng xét nghiệm HIV mà cho kết quả âm tính, người bị phơi nhiễm có thể yên tâm rằng đã không bị lây nhiễm HIV trong tình huống đó.
Một số đối tượng cần nhanh chóng thực hiện dự phòng sau phơi nhiễm là:
- Quan hệ tình dục không an toàn với đối tượng nghi nhiễm HIV.
- Dùng chung kim tiêm, ống tiêm hoặc các thiết bị khác để tiêm chích ma túy.
- Bị tấn công tình dục.