Sỏi thận là một trong những bệnh lý chiếm tới 45-50% các bệnh tiết niệu. Nếu sỏi thận không được phát hiện sớm và can thiệp có thể gây ra những biến chứng khó lường. Bệnh có nhiều loại với nhiều nguyên nhân khác nhau. Do đó, việc điều trị bệnh sỏi thận sẽ phụ thuộc vào loại sỏi mà bạn mắc. Vậy sỏi thận có mấy loại và những bến chứng của bệnh là gì?
Sỏi thận là căn bệnh gì?
Sỏi thận là những tinh thể rắn hình thành trong thận từ các chất trong nước tiểu. Quá trình này được gọi là quá trình tạo sỏi thận. Sỏi thận được hình thành khi lượng nước tiểu giảm và nồng độ chất khoáng trong thận tăng cao. Khi có một trong hai hoặc cả hai hiện tượng trên kéo dài trong nhiều ngày sẽ có nguy cơ hình thành sỏi thận.
Tỷ lệ nam giới mắc cao hơn nữ giới, lứa tuổi thường gặp đó là từ 30-60 tuổi và có thể bắt gặp ở trẻ em.
Sỏi thận có mấy loại
Dựa vào thành phần của sỏi, sỏi thận được phân loại thành 6 loại thường gặp là sỏi canxi, oxalat, phosphat, acid uric, struvit, cystin. Mỗi loại có nguyên nhân và cơ chế hình thành khác nhau, qua đó mỗi loại cũng có những cách phòng chống tái phát sỏi khác nhau.
Sỏi canxi
Sỏi canxi là loại thường gặp nhất trong các loại sỏi, chiếm tỷ lệ 80 – 90 % các trường hợp. Bình thường, sỏi canxi cứng, có nhiều hình dạng, kích thước, mật độ khác nhau.
Nguyên nhân chính là do tình trạng nước tiểu quá bão hòa về muối canxi do tăng hấp thu canxi ở ruột hoặc tăng tái hấp thu canxi ở ống thận. Những nguyên nhân làm tăng nồng độ canxi trong nước tiểu là:
- Cường tuyến giáp cận giáp.
- Gãy xương lớn và bất động lâu ngày.
- Dùng nhiều Vitamin D và Corticoid.
- Di căn của ung thư qua xương, gây phá hủy xương.
Một số tình trạng làm giảm Citrat niệu. Citrat niệu có tác dụng ức chế kết tinh các muối canxi. Khi có toan máu, nhiễm khuẩn tiết niệu, hạ kali máu thì thường citrat niệu giảm. Khi giảm nồng độ citrat trong nước tiểu sẽ bão hòa muối canxi tạo điều kiện kết tinh sỏi.
Ngoài ra còn có rất nhiều trường hợp có tăng nồng độ canxi trong nước tiểu mà không tìm thấy nguyên nhân (chiếm khoảng 40-60% tổng trường hợp). Ngoài ra cũng có thể có nồng độ calci trong nước tiểu cao nhưng nồng độ Calci trong máu vẫn bình thường. Nồng độ calci cao trong nước tiểu không phải là yếu tố quyết định để kết thành sỏi niệu, mà nó chỉ là yếu tố thuận lợi.
Giảm oxalat, natri, hạn chế protein động vật là cách để dự phòng tái phát đối với sỏi canxi.
Ngoài ra bạn nên nhận đủ canxi từ thực phẩm. Việc này nghe có vẻ là nguyên nhân gây sỏi canxi, nhưng thực tế không phải vậy. Với lượng phù hợp, canxi có thể ngăn chặn các chất khác trong đường tiêu hóa có thể gây sỏi.
Sỏi oxalat
Đây là loại sỏi chiếm tỷ lệ cao ở các nước nhiệt đới như nước ta.
Khi nước tiểu bão hòa về oxalate, do ăn thức ăn chứa oxalate hoặc trong trường hợp ngộ độc vitamin C sẽ dẫn đến tình trạng này hoặc ở người bị viêm ruột, cắt một phần ruột non, ngoài ra có thể do di truyền gen lặn trên nhiễm sắc thể thường gây loạn dưỡng oxalat.
Các phân tử này sẽ đi qua đường tiêu hóa và được bài tiết ra ngoài như một chất thải. Khi đi qua ruột, oxalate có thể kết hợp với canxi tạo thành hợp chất canxi oxalate và được bài tiết trong chất thải. Khi có quá nhiều oxalate trong thận thì có thể dẫn đến bệnh sỏi thận.
Oxalat thường kết hợp với canxi để tạo thành sỏi oxalat calci. Những loại rau có hàm lượng oxalat cao bao gồm: cần tây, rau diếp, tỏi tây, củ cải, rau cải, khoai lang, đậu xanh, nho, mận, đậu tương, bí, ớt, cà tím,…
Sỏi acid uric
Acid uric dễ tan trong môi trường kiềm và dễ kết tinh trong môi trường acid, khi pH nước tiểu dưới 6. Sự tăng nồng độ uric trong máu, ngoài việc lắng đọng ở các tổ chức sụn, túi nhầy, da cơ… thì nồng độ uric tại thận cũng tăng cao.
Lắng đọng uric tại thận là nguyên nhân chính gây nên sỏi uric. Sỏi acid uric dễ xuất hiện khi chuyển hóa chất purine tăng trong cơ thể. Các nguyên nhân có thể làm tăng chuyển hoá purine:
- Sử dụng nhiều thức ăn có chứa nhiều chất purine như lòng heo, lòng bò, thịt cá khô, nấm.
- Bệnh gout.
- Phân hủy các khối ung thư khi dùng thuốc hóa trị liệu.
Khi Lượng Acid uric được bài tiết quá nhiều trong nước tiểu. Nước tiểu bị cô đặc sẽ tạo điều kiện thuận lợi để hình thành sỏi.
Sỏi phosphat
Loại sỏi phosphat thường gặp là loại amoni-magné-phosphat, chiếm khoảng 5-15% trường hợp. Loại sỏi này có kích thước to, hình san hô, cản quang, hình thành do nhiễm khuẩn, đặc biệt là do loại vi khuẩn có tên là proteus.
Vi khuẩn protéus có men urease làm phân hủy ure thành amoniaque, do đó nước tiểu sẽ bị kiềm hóa, nếu pH nước tiểu trên 7,0 thì phosphat sẽ kết tủa.
Sỏi cystin
Do rối loạn vận chuyển cystin ở ống thận và ở niêm mạc ruột, nguyên nhân do di truyền gen lặn nằm trên nhánh ngắn của nhiễm sắc thể thứ 14. Sỏi cystin thường đi với một bệnh cảnh bệnh lý ống thận di truyền (đa niệu, hạ K+ máu). Loại sỏi thận này tương đối ít gặp ở nước ta.
Sỏi struvit
Nguồn gốc là nhiễm khuẩn tiết niệu. Vi khuẩn tiết ra men urease làm phân hủy urê, tạo thành amoniac (NH4OH). Amoniac bị phân hủy tạo thành amonium NH4+ và OH- gây kiềm hóa nước tiểu. Struvit (MgNH4PO4.6H2O) được tạo thành và trong điều kiện nước tiểu kiềm hóa thì khó hòa tan và tạo sỏi.
Những biến chứng của sỏi thận
Sau khi sỏi thận được hình thành, nếu kích thước nhỏ, sỏi có thể đi theo đường nước tiểu và được tống ra ngoài. Nhưng nếu kích thước lớn, sỏi bị vướng lại ở một vị trí nào đó trên đường tiết niệu sẽ gây ra các cơn đau sỏi thận như đau quặn thận, đau hông lưng, tiểu ra máu, tiểu gắt buốt… Khi có các biểu hiện trên nếu không giải quyết sớm, tắc nghẽn kéo dài và nhiễm trùng sẽ làm hư hại nhu mô thận, gây ra các biến chứng và thậm chí là suy thận.
Biến chứng nguy hiểm của sỏi thận có thể kể đến như:
Nhiễm trùng đường tiết niệu
Những chất cặn bã nếu không được đào thải hoàn toàn được tích tụ trong thận, đây chính là cơ hội để cho vi khuẩn phát triển mạnh trong đường tiết niệu. Người bệnh sỏi thận có thể sẽ có biểu hiện như đi tiểu ra mủ, tiểu ra máu, tiểu dắt và có thể kèm sốt cao và những triệu chứng đau lưng.
Tình trạng này nếu không được phát hiện kịp thời, điều trị đúng lúc có thể gây ra những khó khăn trong việc điều trị sau này của bác sĩ. Khi tình trạng nhiễm trùng đường tiết niệu được thuyên giảm thì bệnh sỏi thận mới có thể điều trị dứt điểm.
Tắc đường tiểu
Khi những viên sỏi được hình thành trong bồn thận hoặc đài thận hay bọng đái đều có khả năng sẽ đi vào niệu quản và niệu đạo. Những viên sỏi sẽ chiếm hết toàn bộ thiết diện của niệu quản và niệu đạo gây tắc đường tiểu. Lúc này hệ niệu đạo sẽ co bóp mạnh hơn để có thể đẩy viên sỏi ra ngoài khỏi chỗ tắc nghẽn.
Đây chính là giai đoạn bạn cảm thấy có những cơn đau âm ỉ hoặc dữ dội tại vùng giữa xương sườn và lan dần phía dưới háng. Khi đường tiểu bị tắc, những chất thải và nước tiểu sẽ không thể thoát ra được gây nên hiện tượng thận hoặc niệu quản bị ứ nước hoặc tắc đái.
Viêm bể thận cấp
Tắc nghẽn đường tiết niệu do sỏi thận lâu ngày không được điều trị sẽ dẫn tới tình trạng nhiễm khuẩn cấp tính ở các đài thận, niệu quản và bể thận. Nếu nhiễm khuẩn bể thận nặng sẽ gây ra cơn viêm bể thận cấp. Triệu chứng viêm bể thận cấp xảy ra đột ngột và nguy cấp như sốt cao, đau hông dữ dội và đái ra mủ,…
Vỡ thận
Vỡ thận là một trong những biến chứng của sỏi thận xảy ra khi thận ứ quá nhiều nước trong khi vách thận mỏng. Tuy nhiên, đây là trường hợp rất hiếm khi có thể xảy ra. Khi các đài thận bị căng trướng nước tiểu sẽ tạo ra một áp lực cao tác động vào dây thần kinh và vỏ thận gây ra cơn đau quặn thận, viêm nhiễm nặng ở đường tiểu còn gây hoại tử đường tiểu.
Suy thận
Những hạt sỏi sẽ làm tắc đường tiểu của cả hai quả thận cùng một lúc, người bệnh sẽ bị mất tiểu hoàn toàn, tình trạng này nếu để kéo dài nhiều ngày có thể dẫn tới tử vong.
Khi thận bị ứ nước, nhiễm trùng lâu ngày sẽ phá hủy dần nhu mô thận, đơn vị thận cho đến khi mất đi khoảng 50% cơ thể bạn vẫn có thể chịu đựng được. Tuy nhiên, nếu đơn vị thận mất tới 75% thì bạn sẽ có nguy cơ bị suy thận. Lúc này, để có thể tiếp tục duy trì sự sống, người bệnh sẽ phải chạy thận hoặc ghép thận, chi phí điều trị rất đắt và không thể chữa khỏi được.
Phòng ngừa và giảm sự tiến triển của bệnh
Để phòng ngừa sỏi thận bạn nên thăm khám và kiểm tra sức khỏe định kỳ để có thể phát hiện sớm những bất thường trong cơ thể. Việc điều trị sớm cũng giúp cho bệnh tiến triển tốt hơn cũng như phòng ngừa được các biến chứng nguy hiểm. Bên cạnh đó, người bệnh cần lưu ý đến việc phòng ngừa bệnh tái phát để tránh nguy cơ bị suy thận tăng lên.
Quá trình điều trị sỏi thận phụ thuộc nhiều vào yếu tố như kích thước, vị trí sỏi và số lượng. Nếu viên sỏi nhỏ dưới 5mm thì thường sẽ uống nhiều nước để đào thải ra ngoài bằng đường tiểu. Đồng thời, bác sĩ sẽ kê thêm một số loại thuốc giảm đau, kháng sinh nếu bị nhiễm trùng.
Nếu kích thước viên sỏi lớn không thể tự đào thải ra ngoài thì cần tới bệnh viện để can thiệp bằng những phương pháp khác nhau như mổ nội soi hiện đại như:
- Tán sỏi bằng sóng xung kích ngoài cơ thể.
- Nội soi lấy sỏi qua da.
- Nội soi tán sỏi bằng ống soi cứng.
- Nội soi tán sỏi ngược dòng bằng ống nội soi mềm.
Ngoài ra, khi có bất kỳ dấu hiệu bất thường nào như đau quá mức, tiểu ra máu, khó đi tiểu,… thì cần tới ngay cơ sở y tế để được thăm khám và có biện pháp can thiệp kịp thời.